Monday, January 9, 2012

Cuộc Hành Trình Vượt Biên Từ Sàigòn Đến Thái Lan


Trại tị nạn đường bộ của người Việt Nam dọc biên giới Thái Lan và Campuchia. --Les Camps de réfugiés du Vietnamien à la frontière de Thaïlande-Cambodge -- The Vietnamese Refugee Camps at Thailand-Cambodia border: NW9,NW82, Phnom Chat (Phnomchat), Nong Chan, Red Hill, Nong Samet, Phnom Dongrek (Dangrek), Site A, Site II.






FRIDAY, OCTOBER 3, 2008

Hồi Ký Của Ông Lê Tấn Lý - Trại Tị Nạn Nw 9

Trại Tị Nạn Nw 9
Đoàn sáu trăm người này do anh Vinh làm đại diện gọi là trại B. Khi đến trại NW 9 thì ở nơi đó chỉ là một rừng cây, có rải rác vài tấm lều ni lông xanh của lính Thái canh gác. Tại đó có ba trăm người tị nạn vừa ở Non Samet đến vào ba ngày trước. Đoàn ba trăm người này gọi là trại A, do anh PNB làm trưởng trại. Anh B. là cựu trung úy, rất giỏi Anh văn.
Khi chúng tôi đến nơi thì được anh B. và ba trăm người tị nạn đến trước ra chào đón. Họ cũng đã cất một số lều, nấu cơm nóng và cá hộp để đón chúng tôi. Sau đó, cứ mỗi ba người lại được phát một tấm vải ni lông màu xanh để trải ra ngủ tạm trên đất đầy cỏ và cây cối. Cũng đêm ấy, một con rắn bò qua tay cô Oanh. Cô này hốt hoảng la hét lên, thế là cả trại cũng hốt hoảng hét to theo.
Lúc đầu, ông George Verheil, nhân viên hội HTTQT đã chuyển lời của viên đại úy TháiLan có tên là Viroj để dằn mặt chúng tôi:
“Các bạn được ở tạm đây và được coi như là những người nhập cư bất hợp pháp. Cuộc sống của các bạn sẽ không có ai bảo đảm. Các bạn không được đi ra khỏi giao thông hào chống chiến xa ở trước trại, cũng không được đi ra khỏi vòng dây giới hạn làm vòng rào. Nếu ai cãi lệnh sẽ bị xử bắn ngay.”
Các binh lính Thái Lan thì đóng rải rác ngay chung quanh trại này. Từ tháng 4 năm 1980 đến tháng 6, năm 1980, không có phái đoàn nào tiếp đón chúng tôi. Đến tháng 6 năm 1980, viên đại úy Thái là Viroj cho biết là nếu đến ngày 31 tháng 7, năm 1980 mà không có phái đoàn nước nào nhận chúng tôi thì tất cả mọi người sẽ bị đuổi về lại biên giới Thái và Cambodia, chứ không được ở nơi đây nữa.
Ban đại diện và các thân hào, nhân sĩ bèn họp nhau quy tụ những người giỏi sinh ngữ để viết thư cho ba mươi bốn nơi trên thế giới để xin cầu cứu. Chúng tôi viết thư đến các chính quyền Thái Lan, Hoa Kỳ, Canada, Úc, Pháp và Anh, kể cả việc việt thư cho Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II ở La Mã, Ý và Đức Đạt Lai Lạt Ma ở Tây Tạng.
Sau đó, chúng tôi họp tất cả khoảng ba ngàn người tị nạn trong trại NW 9, đọc cho họ nghe và xin thêm ý kiến. Rồi chúng tôi nhờ nhân viên hội HTTQT là ông Leon de Riedmatten chuyển thư đi.
Vì tuyệt vọng và lo sợ bị trả về biên giới rồi sẽ bị nhóm lính Para, Pol Pot hay Việt cộng bắn giết, hãm hiếp và bỏ tù, nên một số chúng tôi trong ban đại diện đã bàn với nhau để thống nhất một kế hoạch chung, chuẩn bị nếu người tị nạn bị trả về vùng biên giới sôi động.
(Lúc ấy, các người đàn ông và thanh niên chúng tôi sẽ trở về đầu quân cho cho quân Kháng Chiến chống Cộng Sản của người Cambodia. Sau khi được phát súng để chiến đấu, chúng tôi sẽ tìm đường vượt biên giới Thái, đi về hướng đông nam của đất Thái, lấy tàu bè của của dân Thái để vượt biển lần nữa đi đến Mã Lai hay Singapore. Lý do là vì lúc ấy đâu còn tiền để mua thuyền được. Có thể vào giờ cuối, chính quyền Thái vì lý do nhân đạo sẽ chỉ cứu vớt những gia đình có con nhỏ. Còn đám đàn ông, thanh niên như chúng tôi thì luôn chịu sự thiệt thòi.)
Sau đó một tháng thì có một phái đoàn của vị thứ trưởng bộ Ngoại Giao Mỹ đến thăm trại chúng tôi. Tất cả dân tị nạn trại NW 9 mừng rỡ vô cùng vì nghĩ rằng trại sắp được giải quyết. Khoảng hai tuần lễ sau thì có một danh sách gồm một trăm bốn mươi mốt người được phái đoàn Mỹ chấp nhận cho rời NW 9 để đến trại Panatnikhom ở sâu trong nội địa Thái, gần Bangkok.
Vào giờ chót, chính quyền Thái Lan gạt ra một số người để buộc họ ở lại, chỉ còn hơn một trăm người được tiếp tục đi. Trong số người bị gạt lại đó có tên ba cha con tôi vì chúng tôi không có trẻ con và phụ nữ.
Khi chúng tôi đến trại NW 9 thì nhân số vào khoảng chín trăm người. Nhưng khi chúng tôi rời trại thì nhân số lên đến ba ngàn người. Dân tị nạn đến rải rác hàng ngày và đều do xe của hội HTTQT chở đến từ các trại thuộc quyền kiểm soát của Para và Pol Pot. Mỗi ngày người tị nạn đến chừng vài ba chục người. Lúc ấy có tôi, ông C. và anh H. làm giấy tờ lý lịch (Tracing cards) cho những người mới đến.
Sau khi bị gạt tên trong danh sách, mãi đến hai tháng sau, gia đình tôi mới được đi tới trại Panatnikhom. Chúng tôi còn phải qua trại Galang ở Indonesia cho đến ngày 10 tháng 7, năm 1981 mới được đặt chân lên Oakland, San Francisco thuộc tiểu bang California.”



FRIDAY, SEPTEMBER 26, 2008

Hồi Ký Của Ông Lê Tấn Lý - Phần 1

Cuộc Hành Trình Vượt Biên Bằng Đường Bộ Từ Việt Nam Qua Thái Lan.

Ông Lê tấn Lý vượt biên bằng đường bộ cùng với hai con trai. Ông cùng hai con đến trại Non Chan, sau đó qua trại NW 9,rồi trại Panatnikhom và một vài trại khác trước khi đến Hoa Kỳ vào tháng 7, năm 1981.
Ba cha con tôi ra đi từ Sàigòn vào ngày 2 tháng 4, năm 1980. Mỗi đầu người phải trả bốn lạng vàng cho ban tổ chức. Tôi bắt liên lạc với đoàn xe vận tải chuyên chở gạo từ Sàigòn đến Battambang ở Cambodia.
Tổ chức này làm giấy giả cho tôi để giả dạng làm lơ xe và phu khuân vác gạo. Đoàn xe này khi rời Sàigòn đến Nam Vang thì có mười lăm chiếc. Nhưng từ Nam Vang đến Battambang thì chỉ có ba chiếc xe thôi. Vì thế, con đường đi của chúng tôi rất gian nan và nguy hiểm. Lý do chính là nếu đi mười lăm chiếc thì dễ trà trộn hơn là chỉ có ba chiếc thôi.
Khi tới Nam Vang thì xe vận tải đậu ở ngoại ô thành phố. Chúng tôi ở tại đây được hai ngày. Sau đó thì đi Battambang. Tới Battambang, chúng tôi sợ luôn những người tổ chức trong đoàn xe vận tải ấy. Lý do vì họ không phải là người nhận tiền của chúng tôi.
Người nhận tiền vì lý do nào đó đã kẹt ở Sàigòn, nên anh ta giao chúng tôi cho một nhóm người khác để họ đưa chúng tôi đi. Nhóm này hỏi chúng tôi có vàng thêm thì đưa cho họ. Dù trong túi còn vàng, chúng tôi vẫn làm bộ hết tiền để khỏi chi thêm cho họ.
Vì thế, họ để cho nhóm lính kiểm soát thẳng cánh xét hỏi chúng tôi mà họ không hề binh vực chúng tôi điều gì. Trên đoạn đường đi từ Nam Vang đến Battambang dài độ hai trăm năm mươi cây số, mỗi lần gặp trạm kiểm soát, chúng tôi phải đưa giấy tờ giả ra cho họ xem. May mắn là qua thoát được hết cả. Chúng tôi run sợ trong suốt cuộc hành trình đó.
Khi đến Battambang, cha con tôi rời ngay đoàn xe vận tải để tìm đến địa điểm hẹn mà người trong ban tổ chức đã chỉ dẫn. Chúng tôi đến được một quán ăn có bán hủ tiếu và nước ngọt. Nơi đây, tôi gặp người dẫn đường là một người Miên nhưng có vợ là người Việt Nam. Ông này nói tiếng Việt rất giỏi. Ông ta đưa chúng tôi đi từ Battambang đến Sisophon bằng xe mô tô ba bánh, kiểu xe thồ.
Dọc đường, có hai trạm kiểm soát của người Miên, chúng tôi cũng giả làm người Miên nên đi qua trót lọt. Đến thành phố Sisophon, người dẫn đường dắt chúng tôi vào nhà một người quen để ăn uống và chuẩn bị cho cuộc đi bộ vào ban đêm. Họ nói từ Sisophon đến biên giới Thái độ chừng tám mươi cây số. Nhưng tôi tính ra thì chỉ độ khoảng năm mươi hay sáu mươi cây số mà thôi.
Chúng tôi nhập bọn với bảy người đàn ông trai tráng nữa . Trong số ấy cũng có người lớn tuổi như tôi, cỡ trên năm mươi tuổi. Thế là chúng tôi đi bộ trong rừng mà không có đường mòn. Mỗi lần đi phải vạch cây lá mà đi.
Từ Sisophon đến Non Chan, chúng tôi phải đi trong bốn đêm. Cứ tối, độ 7:00 giờ hay 8:00 giờ tối là bắt đầu đi cho đến độ 5:00 giờ sáng thì được nghỉ. Thường thì người dẫn đường dắt chúng tôi gửi vào nhà người quen để khỏi bị lộ, và để ăn uống và ngủ lấy lại sức, chờ đến tối thì đi tiếp.
Tối đến thì chúng tôi lại được giao cho một toán dẫn đường khác. Như thế họ cứ thay đổi người dẫn đường mãi. Nhờ chúng tôi đi số đông, hết thảy là mười người đàn ông nên chúng tôi bênh vực và bảo vệ cho nhau, do đó những kẻ dẫn đường dù có tà tâm cũng không thể giết chúng tôi được.
Sau ba đêm, đến một chỗ vắng, chúng tôi bị giao cho một nhóm dẫn đường khác. Nhóm người này cầm búa và rìu trông vẻ mặt thì dữ tợn và bất lương. Họ đưa chúng tôi vào rừng rồi bắt cởi hết quần áo để họ xét và ăn cướp tất cả.
Lúc đầu họ còn nói ngọt ngào để chúng tôi viết giấy về gia đình nói là đã đến biên giới rồi. Như quy ước, nếu đến nơi, nếu như viết đúng nội dung mật hiệu đã quy định thì người nhà tôi mới giao đủ số vàng còn lại. Tôi đã dùng mật hiệu báo cho vợ tôi biết là tôi chưa đến nơi. Chứ nếu không viết thư thì chúng làm khó dễ và bỏ rơi mình.
Ở tại khu rừng ấy, có lẽ chỉ cách trạm gác của Bộ đội Việt Nam độ vài cây số, thì bọn cướp này cướp tất cả mọi thứ của cải của chúng tôi. Khi chúng tôi vùng vằng phản đối thì bọn chúng dọa sẽ tố cáo với Bộ đội Việt Nam để chúng tôi bị bắt.
Vì thế, chúng tôi nghi là bộ đội Việt nam chắc là ở không xa nơi này là bao. Bọn chúng cướp tất cả những quần áo lành lặn mà chúng tôi đang mặc trên người. Khi thấy chúng tôi trần truồng, trông khó coi qúa thì chúng bèn vứt cho chúng tôi vài cái quần đùi, vài cái áo rách rưới và hôi hám, và vài khăn quàng của người Miên.
Lúc ấy, chúng tôi thấy cái chết trước mắt, không còn cách gì mà đến được biên giới nữa rồi. Chỉ còn một hy vọng mong manh làkhi bọn hắn đã lấy khá nhiều vàng, đồng hồ và quần áo rồi, chắc là chúng sẽ tiếp tục dắt mình đi nữa.
Khoảng 7:00 giờ tối, bọn cướp bèn dùng đèn pin dắt chúng tôi đi tiếp độ hơn nửa cây số. Đến một lộ đất, chúng nói gạt chúng tôi rằng chỉ còn có hai cây số nữa là đến trại của quân Kháng Chiến chống Cộng sản Việt nam, đó tức là lực lượng Para. Nghe như vậy, chúng tôi rất nôn nóng và thèm khát được đến đó vô cùng.
Khi vừa ra khỏi lộ đất thì bọn chúng tắt đèn và rút lui mất dạng hồi nào mà chúng tôi không hay biết. Chỉ còn mười người chúng tôi tiếp tục lần mò đi theo hướng mà chúng đã chỉ. Đi độ chừng một cây số thì con tôi là cháu Tiến bị xỉu ngay tại chỗ mà không còn đi được nữa. Có lẽ Tiến bị xáo trộn tinh thần qua việc bị cướp bóc mà xỉu.
Tôi bèn yêu cầu cả đoàn ở lại nghỉ mệt để chờ con tôi bớt mệt rồi cùng đi tiếp. Ban đầu, bọn họ làm thinh. Sau đó, họ bàn bạc và quyết định để ba cha con tôi ở lại, còn họ đi tiếp vì họ không thể vì một người xỉu để mà ở lại hết.
Thế là họ chào chúng tôi và tiếp tục lên đường vào lúc độ 9:00 giờ tối. Buồn tủi và bàng hoàng, ba cha con tôi đành ở lại vì không còn đi được nữa. Chúng tôi đi sâu vào trong rừng, rồi đạp cỏ tranh dẹp xuống để làm thành một chỗ mà nằm ngủ tạm. May là không bị rắn cắn trong đêm ấy.
Đêm đó, tôi sợ hãi mà không dám ngủ, trong khi hai cậu con trai của tôi ngủ say và ngáy vang trời. Vốn là sĩ quan của chế độ VNCH, tôi đã biết cách di chuyển ở những vùng biên giới nguy hiểm. Lại nữa, tôi nghĩ rằng nơi đây là vùng ranh giới, nơi có nhiều lực lượng quân sự khác nhau như quân đội của Cộng Sản Việt nam, của Cộng Sản Miên, của lực lượng Kháng chiến, và của Khmer Đỏ tức là Pol Pot. Ngoài ra, còn có lực lượng du kích hoạt động về đêm và cả dân buôn lậu nữa.
Chính vì tính cách đa dạng và nguy hiểm của vùng biên giới, bởi bất cứ lực lượng nào cũng có thể bắn mình nếu họ khám phá ra có bóng người di chuyển. Vì vậy tới đây, ta không thể di chuyển ban đêm được nữa, mà phải di chuyển vào ban ngày để bảo đảm sự an toàn hơn.
Sẵn dịp Tiến bị xỉu, tôi phải chờ đến lúc rạng đông có mặt trời lên để biết hướng tây mà đi. Tôi nghĩ mình cứ chực chỉ hướng tây thì thể nào cũng đến được biên giới Thái. Lúc ấy tôi cũng chưa biết gì về lực lượng lính Para cả.
Sáng 10 tháng 4, năm 1980, lúc đi dọc đường, chúng tôi thấy từ xa có đoàn xe bò từ biên giới về, nên cha con tôi lại nhảy vào bụi rậm để trốn núp. Đoàn xe đi ngược lại hướng chúng tôi đang đi. Khi họ đi qua, chúng tôi thấy trên xe bò chỉ có đàn bà và con nít chứ không có vũ khí. Biết họ chỉ là dân lành nên tôi cũng yên tâm. Tuy nhiên chúng tôi cũng chờ họ đi qua một đoạn khá xa rồi mới đi tiếp nữa.
Vì thế nên chúng tôi đi rất lâu. Độ một tiếng sau, tôi quay lại dặn hai con:
- Ba đã lớn tuổi rồi có chết cũng được, không sao cả. Còn hai con còn trẻ, chết sớm tội nghiệp lắm. Bây giờ ba đi trước, còn tụi con đi sau khoảng vài trăm thước. Nếu thấy ba bị bắt thì tụi con phải nhảy vào rừng trốn ngay, chứ để bị bắt chung cũng không có lợi gì. Rồi từ từ, các con đi sau. May ra thì cũng tới nơi!
Các con tôi không chịu, chúng sợ tôi đi một mình nguy hiểm nên chúng cứ đi theo sát tôi. Vì thế tôi lại càng phải cẩn thận hơn. Đi độ một lúc nữa, chúng tôi vì khát qúa mà lại ở trong rừng khô, không có nước, nên chúng tôi phải đi tiểu vào bi đông để uống lại nước tiểu của mình.
Một chập, chúng tôi thấy bóng năm, sáu người đi bộ từ đàng xa. Họ đang gánh một cây sào dài, trên đó có bao gạo, sô nước và đồ dùng. Chúng tôi lại trốn núp chờ họ đến gần. Biết chắc là nếu gặp họ thì cũng không có gì nguy hiểm, nên tôi bèn nhảy ra chận họ lại để xin nước uống. Ban đầu họ nghi ngờ tôi, mà tôi cũng sợ họ.
Sau họ thấy tôi ra dấu muốn xin nước uống, họ liền cho tôi uống ngay. Tôi bèn đổ bi đông nước tiểu để xin họ cho một bi đông nước uống. Họ cũng vui vẻ cho tôi nước. Trông họ rất thật thà và tử tế, khác hẳn với những người Miên cầm quân và những kẻ dẫn đường đã cướp hết của cải của chúng tôi. Lũ người kia thật là ác độc và tham lam.
Vừa khi ấy, hai con trai tôi lững thững từ trong rừng bước ra. Tôi đưa tay chỉ con đường phía trước và hỏi họ:
”Xiêm?”
Họ bèn gật đầu và hỏi tôi xem phía sau lưng tôi có Bộ đội Việt Nam hay không? Họ nói được bốn tiếng ”Bộ đội Việt Nam” bằng tiếng Việt. Chúng tôi hỏi đường rồi tiếp tục đi nữa.
Đi chừng vài cây số thì đau đớn thay, chúng tôi thấy xác chết của bảy người bạn đồng hành trên chuyến đi ấy. Đây là những người bạn đã từ giã chúng tôi để ra đi đêm hôm trước. Họ bị giết chết bằng súng vì chỉ nhìn các vết thương của họ, chúng tôi cũng đoán được.
Thường thì người Miên giết người bằng giáo mác hay dao búa, nhưng bảy người này bị bắn chết. Có lẽ họ bị một trong các lực lượng chiến đấu bắn chết. Nạn nhân không nằm gần nhau: Bốn người thì nằm cách gần nhau, còn ba người kia thì nằm chết cách xa đó độ hai trăm thước. Có lẽ họ đã chạy được mà bị đuổi theo để bắn chết.
Tôi không thể gom họ lại và chôn xác họ được, mà chỉ biết van vái cho họ giúp chúng tôi đến nơi chốn bình yên. Chỗ họ chết chỉ cách biên giới Thái chừng mười lăm cây số mà thôi! Ôi, giá của tự do qúa đắt! Họ đã trả giá bằng chính mạng sống của chính mình! Định mệnh thật đáng sợ. Tôi chợt nhớ đến số phận mình. Nếu Tiến không xỉu đêm ấy, chắc ba cha con tôi cũng chịu chung số phận bất hạnh như họ rồi.
Thế rồi chúng tôi lại đi tiếp, mỗi lần gặp những người đi ngược chiều với mình, thì đó là những người đi buôn lậu và xin gạo từ Miên về, là chúng tôi hỏi tiếp đường đi. Đến khoảng 10:00 giờ sáng thì chúng tôi gặp một người đàn ông Miên đang đi ngược chiều với chúng tôi, tay anh ta cầm chiếc búa đẽo cây.
Một điều lạ lùng là khi anh ta thấy chúng tôi thì vội xoay người lại để đi cùng chiều với chúng tôi. Dáng vẻ anh như đang suy tính điều gì quan trọng. Chừng như anh ta là quân thám thính và đang muốn trở về báo cáo với cấp trên về sự hiện diện của ba người lạ mặt là chúng tôi. Lúc ấy, chúng tôi sợ hãi vô cùng. Muốn chạy mà chạy cũng không được. mà muốn trốn thì sợ họ nghi. Tôi còn một niềm hy vọng là sớm gặp các lực lượng binh sĩ chống Cộng.
Đi khoảng nửa cây số thì tôi gặp một đám lính tóc dài, mặc quần áo dù rằn ri như quân phục của Quân đội VNCH ngày xưa. Tôi mừng thầm vì nghĩ rằng họ là lực lượng chống Cộng Sản, tức là đồng minh của mình. Bọn họ chận chúng tôi để lục xét tiền bạc và quần áo. Con trai tôi là Nhân còn giữ được một miếng vàng nhờ nó kẹp giữa bó vải bó cái chân bị sưng phồng.
Thế là họ cướp miếng vàng ấy và dặn chúng tôi khi vào trong trại Para thì không được khai là đã bị họ cướp vàng. Nếu khai đã bị họ cướp thì họ sẽ giết chúng tôi ngay. Cũng may là chúng tôi còn chút vàng để cho họ cướp thì họ mới cho đi ngay. Còn nếu không, chúng tôi không biết sẽ bị đối xử ra sao.
Sau đó, đám lính Para này cho chúng tôi vào trại Para. Tại văn phòng của lực lượng nàycó một vài người biết nói tiếng Anh và tiếng Pháp. Họ vặn hỏi lý lịch của chúng tôi. Họ còn hỏi xem chúng tôi có thân nhân ở nước ngoài không. May cho tôi là xấp giấy tờ tùy thân còn nguyên vì bọn cướp đường không thèm lấy. Họ lục coi từng chữ một, xong họ cho chúng tôi ra ngồi phía trước văn phòng. May là tôi có thân nhân ruột thịt ở Mỹ quốc nên họ cũng không đối xử tử tế hơn với chúng tôi.
Sau đó, họ cho chúng tôi ra ngoài bụi tre. Tại đây tôi gặp gia đình ông Mỹ là bốn nguời, gia đình ông Nê là bốn người, anh em anh Hoà, anh Trung, vợ chồng anh Cho, vợ chồng anh Vĩnh (gia đình Kim Hà). Còn cô Oanh đến trước và bị nhốt ở trại bên kia. Cô ta tới trại lúc 12:00 giờ khuya.
Tại đây, nhóm lính Para phát gạo cho dân tị nạn ăn và cho muối để làm thức ăn. Sau đó, khoảng ba, bốn giờ chiều, cả đoàn tị nạn gồm ba mươi tư người được đưa qua nhà thương Non Chan.



TUESDAY, JUNE 23, 2009

Cuộc Hành Trình Vượt Biên Từ Sàigòn Đến Thái Lan - 7

Phần 7: Từ Sisiphôn Vượt Biên Giới
Trần Chí Thành

Sáng hôm sau, khoảng sáu giờ sáng ngày 29 tháng 4, năm 1980, chúng tôi bắt đầu lên đường qua biên giới. Trời mờ sáng nên ít người qua lại. Vì sơ ý đi quá sớm nên chúng tôi đã bị một người bộ đội Miên chận bắt. Thế là bốn chúng tôi và người dẫn đường mạnh ai nấy chạy trốn. Tôi cũng cắm đầu chạy thục mạng vào một ngã tư gần đấy, lòng bâng khuâng không biết số phận bạn mình ra sao.
Chờ đến sáng tỏ rồi tôi mới lò mò đi thì chỉ gặp người dẫn đường và một bạn trong nhóm. Anh dẫn đường giao cho tôi một chiếc xe đạp và bạn tôi một chiếc nữa. Tâm hồn chúng tôi bối rối và căng thẳng. Tình thế thật là nguy hiểm: Đi sáu người rồi còn bốn, đang bốn người nay lại còn có hai. Chúng tôi đi xe đạp về phía đường mòn để hướng về biên giới.
Khoảng 11:00 giờ trưa, chúng tôi bị toán lính Bộ đội Việt Nam chận bắt. Cả ba người: hai chúng tôi và người dẫn đường đều bị hành hạ và đe dọa đủ điều nhưng chúng tôi không chịu khai điều gì khác những gì mà họ thấy. Họ lục xét và cướp hết số vàng bạc và tiền trong người chúng tôi.
Thấy số vàng khá nhiều nên họ thả cho chúng tôi đi tiếp. Lại có một phép lạ xảy ra vì tại đây, chính mắt tôi thấy bọn ho đã bắt những người vượt biên người Việt Nam, rồi trói ké lại thật chặt như những con heo để giải họ về giam giữ ở Việt Nam. Nhìn thấy các nạn nhân trông thương tâm và đáng tội nghiệp. Thế mà bọn họ lại thả chúng tôi đi. Đúng là một phép lạ của Thượng Đế!
Sau đó, người dẫn đường vội vàng dắt hai chúng tôi vào một trạm nhà sàn ở bìa rừng gần đó. Ông ta cho tôi và Phước ăn cơm và nghỉ trưa tại nhà này. Còn ông ta đi ngược về Sway-Sisophon để kiếm hai người bạn tôi đã thất lạc trong lúc chạy tán loạn, không biết bây giờ họ ở nơi đâu.
Mãi đến ba giờ chiều hôm ấy, ông ta tới và đem theo hai người bạn đã bị thất lạc. Chúng tôi bồi hồi và sung sướng gặp lại nhau. Thật không còn nỗi mừng nào to lớn hơn. Tinh thần chúng tôi cũng lên cao hơn vì nghĩ mình có một người dẫn đường đáng tin cậy và vì tái ngộ với hai bạn tưởng đã mất đi.
Kể từ đây, theo lời ông đưa đuờng thì con đường dẫn tới Thái Lan không còn bao xa. Nếu tính theo đường chim bay thì còn cỡ hai mươi lăm hay ba mươi cây số nữa. Nhưng có hai phương cách để đi đến đích. Cách thứ nhất là đi theo đường đi buôn của dân Miên. Họ đi từng tốp xe đạp để chở hàng hoá về. Họ đi con đường thẳng, đến ngã ba thì quẹo trái để ra đường qua biên giới Thái Lan.
Nếy muốn đi lối này thì gặp rất nhiều trạm kiểm soát của Bộ đội Việt Nam cũng như Bộ đội Cộng sản Miên. Những người lính canh gác ở đây rất dữ dằn và canh gác nghiêm nhặt vì đây là những trạm gác cuối cùng để đi đến biên giới và cũng là những trạm gác địa đầu nếu từ biên giới Thái trở về Cambodia. Nếu đi vượt biên lối này thì rất khó thoát vì chính mắt tôi đã thấy rất nhiều người Việt Nam bị bắt hôm nay.
Cách thứ hai là đi tắt vào đường rừng để đến biên giới. Nhưng đi trong đường rừng rất khó mà định phương hướng. Ngoài ra ta sẽ gặp mìn, hay không thể kiếm mua lương thực và nước uống, như vậy có thể đói và chết bỏ xác dọc đường.
Sau khi bàn tính để so sánh lợi hại giữa hai cách đi, chúng tôi liền nhớ lại cảnh hai người bạn bị bắt hôm trước vì đi qua các trạm kiểm soát. Với phương cách giả dạng dân Miên đi buôn, chúng tôi không tin rằng mình có thể đi trót lọt qua nhiều trạm kiểm soát gắt gao của vùng địa đầu biên giới này.
Tính tới hôm nay, chúng tôi đã trải qua mười ngày đường đầy gian khổ và hiểm nguy. Chúng tôi đã qúa mệt mỏi cả về tinh thần lẫn thể xác: ăn uống thất thường, nằm bờ ngủ bụi. Thần kinh của chúng tôi đã căng thẳng đến mức tột cùng. Không một giây phút nào mà không phải lo âu và suy nghĩ. Sự đau khổ và nỗi hãi hùng cứ chồng chất thêm vào bước chân đi tới.
Lính Cộng Sản Việt Nam giăng lưới bủa vây khắp nơi. Chúng tôi khiếp hãi đến tột độ. Thôi! thà ráng chọn lối đi vào rừng, dù cho nó có dài hơn và khổ hơn nhưng vẫn tốt hơn là cứ phải đối diện với kẻ thù và không biết họ sẽ bắt mình lúc nào nữa. Do đó chúng tôi đều chọn lối đi vào rừng, dù có thể đạp mìn, có thể đói khát vì thiếu luơng thực và nước uống.
Sau khi nghỉ trưa ở trạm bên bìa rừng, vào khoảng 4:00 giờ chiều ngày 29 tháng 4, năm 1980, chúng tôi bắt đầu đi bộ tắt vào đường rừng, băng qua núi theo sự hướng dẫn của một thổ dân ở đó để tránh khỏi đạp những ổ mìn của tất cả các phe phái chính trị.
Đêm hôm ấy, chúng tôi ngủ tạm ở trong rừng biên giới. Ánh trăng sáng vằng vặc làm không khí khu rừng đỡ buồn tẻ. Chúng tôi vẫn lo sợ và cảnh giác tối đa.
Sáng hôm sau, vào đúng ngày 30 tháng 4 năm 1980, đúng 5 năm,sau khi Cộng Sản Việt Nam chiếm miền Nam Việt Nam, và cũng là ngày Quốc Hận, chúng tôi đã dậy thật sớm và bắt đầu đi băng qua đường rừng. Suốt ngày hôm ấy, chúng tôi chịu cảnh đói khát. Tay chân mỏi rã rời. Nắng cứ quái ác rót đổ trên đầu làm mồ hôi chúng tôi toát ra như tắm.
Nhưng nhất định phải cố mà đi, nếu sơ hở một chút thì chúng tôi lại có thể bị bắt ngay hay bị đạp mìn mà chết banh xác trong rừng biên giới. Sự nguy hiểm đã và đang rình rập chúng tôi trên từng bước. Con đường rừng trải dài trước mắt và chúng tôi cứ lầm lũi quyết chí tiến lên.
Sau cùng, chúng tôi cũng đã lần mò đến được con đường mòn của dân đi buôn lậu. Tới đây, người dẫn đường cười hớn hở và quay lại nói với chúng tôi rằng:
-Tới đây, các anh đã thoát khỏi tầm hoạt động của Cộng Sản Việt Nam rồi. Bắt đầu từ đây, các anh có thể gặp lính Miên của Lon Nol, Sihanouk, Son Sann hay lính Khmer Đỏ của Pol Pot. Họ có thể bắt các anh để tra hỏi và cướp của. Các anh đừng trốn tránh và cứ để cho họ bắt. Cuối cùng, họ cũng giao các anh cho người Mỹ!
Chúng tôi mừng rỡ vì đã thoát khỏi vùng kiểm soát của Bộ đội Việt nam. Thế là chúng tôi lại tiếp tục đi mãi trên con đường mòn biên giới. Người dẫn đường dặn dò chúng tôi:
-Các anh cứ đi thẳng theo đường xe bò này là tới trại tị nạn!
Rồi sau đó, anh ta bỏ rơi chúng tôi ở dọc đường. Kể từ 5:00 giờ sáng khởi sự đi trên đường mòn, chúng tôi gặp rất nhiều dân Miên đi buôn bằng xe đạp. Họ nói cười và đùa giỡn rất vui vẻ. Còn chúng tôi thì đã qúa mỏi chân và mệt nhoài. Thử đánh bạo, chúng tôi ngoắc họ lại để xin đi qúa giang nhưng tất cả đều lắc đầu từ chối. Chán nản cùng cực, chúng tôi lại tiếp tục đi bộ tiếp.
Bất ngờ, chúng tôi bị ba người lính Miên chặn lại. Những nhóm lính này không mặc quân phục giống Bộ đội Cộng sản Miên hay Bộ đội Cộng Sản Việt Nam, mà họ lại mặc quân phục rằn ri như lính nhảy dù của VNCH ngày xưa. Chúng tôi đoán đây là lực lượng kháng chiến của Lon Nol hay Sihanouk.
Đám lính này tra xét và khi biết chúng tôi là người Việt Nam thì họ cười đùa thích thú, rồi họ ra lệnh cho chúng tôi đi theo họ vào sâu trong rừng, xa khỏi đường mòn. Tại đây, họ chỉa súng vào người chúng tôi và nhanh như chớp, họ bắt chúng tôi lột trần như nhộng để họ khám xét mọi chỗ trong cơ thể và hành lý để cướp của. Sau đó, họ lại cho chúng tôi đi tiếp.
Trên suốt con đường mòn trong rừng biên giới, chúng tôi đã bị chận xét và lục soát để lấy của đến mấy chục lần, bởi hết toán lính này đến toán lính khác. Cuối cùng, chúng tôi chẳng còn một thứ hành trang nào khác, ngoài bộ quần áo đen mặc trên người.
Tiền hết, cơn đói rã rời, cơn khát cháy cổ, tất cả những lo âu và bận tâm ấy làm chúng tôi mệt đến muốn ngất xỉu. Chúng tôi bèn hỏi những người dân Miên đi buôn rằng bao giờ tới Thái Lan. Ai cũng trả lời còn năm hay mười cây số nữa thôi. Tuy nhiên, lần nào hỏi cũng chỉ nghe năm hay mười cây số. Chúng tôi tưởng chừng muốn điên lên vì qúa sức khổ và đói khát.
Trời cực nóng, nắng sôi đổ lửa trên đầu, con đường mòn như cứ kéo dài ra. Rồi cuối cùng, chúng tôi cũng đã lần mò và tìm đến gặp một đồn lính của lực lượng Para vào khoảng lúc trời nhá nhem tối, độ 6:30 giờ chiều.
Tôi tưởng rằng mình sắp đến trại tị nạn rồi nên mừng rỡ. Thế là từ đây sẽ không còn ai dám làm gì hại được chúng tôi nữa rồi. Một ngày qua đi với hơn năm mươi cây số lội bộ đường rừng, với cơn đói và khát khô cổ.
Chúng tôi đã băng qua một khu rừng đầy những quân lính của bao nhiêu phe phái, nghe nhiều tiếng súng nổ, vượt khỏi những bãi mìn giăng đầy. May là chúng tôi có người dẫn đường chỉ dẫn cho đi vào con đường mòn. Chứ nếu không, có thể chúng tôi đã chết banh xác vì đạp nhằm mìn từ lúc đi băng rừng rồi.
Thoạt đầu, chúng tôi tưởng mình sẽ được thoải mái khi được ở đồn Para vì chúng tôi đã thoát khỏi tay lính Việt Cộng. Nhưng rồi, qua kinh nghiệm, chúng tôi thấy bọn Para cũng độc ác và nguy hiểm không kém.
Bọn này không để cho chúng tôi yên, chúng cứ thay phiên nhau lục xét để cướp của. Thậm chí vào ban đêm, chúng cũng rọi đèn pin vào mặt rồi dựng đầu chúng tôi dậy đi, bất chấp cả khi chúng tôi đang ngủ ngon lành.
Chúng tôi ở tại đồn Para trong hai đêm. Đến ngày 2 tháng 5, năm 1980, lúc 9:00 giờ sáng, thình lình hai phe Para và Pol Pot đụng độ nên bắn nhau đữ đội, đạn bay vù vù trên đầu. Chúng tôi qúa sức hoảng sợ nên nhất loạt nằm cúi rạp xuống đất để tránh tầm đạn.
Lúc này, bọn Para đã hoàn toàn ở vào tư thế ứng chiến. Chúng vội vàng đeo bùa vào cổ, vào tai và tay. Bùa màu đỏ, đeo tòn ten trên người nên trông chúng còn dữ dằn hơn lúc bình thường. Nhóm Para này núp vào các bụi cây để bắn trả nhóm lính Pol Pot một cách quyết liệt. Bọn họ nằm cách chúng tôi chỉ có vài chục thước. Còn chúng tôi thì không có một tấc sắt trên tay, chỉ biết nằm úp mặt xuống đất, mặc cho định mệnh an bài.
Sau khoảng nửa giờ giao tranh, hai phe im tiếng súng. Trưa hôm đó, nhóm Para đưa bốn chúng tôi đến trại Non Samet, tức là trại 007.


TUESDAY, JUNE 30, 2009

Cuộc Hành Trình Vượt Biên Từ Sàigòn Đến Thái Lan - 8 (Kết cuộc)

Phần 8: Trại Tị Nạn Non Samet
Trần Chí Thành

Chúng tôi ở trại này trong sự băn khoăn chờ đợi vì không biết số phận mình sẽ được định đoạt như thế nào. Trong lúc ấy, nhóm lính Para ở trại này vẫn lại tiếp tục lục xét. Cái trò lục xét và bắt nạn nhân cởi quần áo và chổng mông cho họ móc trong hậu môn đã làm cho chúng tôi chán ghét và cảm thấy tủi nhục thêm vì thấy thân phận mình còn thua một con chó. Họ muốn hành hung và hạ nhục mình lúc nào cũng được.
Trong thời gian này, tôi lân la bắt chuyện với một người lính Para và được biết trại này chỉ cách ranh giới Thái Lan có mười cây số. Tôi nghĩ thầm:
-Nếu đi mười cây số thì chỉ mất có hai tiếng đồng hồ là cùng. Mình phải đi thôi, nếu không thì cứ phải chịu đựng cái cảnh chờ đợi mỏi mòn và chịu nhục vì bị họ lục soát mãi.
Tôi bèn bàn luận với ba người bạn và rủ họ cùng trốn qua đất Thái Lan. Nhưng ba người bạn tôi lắc đầu từ chối nên tôi phải trốn đi một mình với hai bàn tay trắng. Tôi nhắm hướng theo lời chỉ dẫn của tên lính Miên để đến Thái Lan.
Khoảng hai tiếng đồng hồ sau, khi đã vào trong một cánh rừng nọ, thình lình tôi gặp một nhóm lính khác, mặc sắc phục khác hẳn nhóm lính Miên ở đây. Có lẽ họ là lính Thủy Quân Lục Chiến của Thái Lan vì họ mặc quần áo rằn ri, có nón sắt và đi xe thiết giáp.
Tôi sung sướng qúa vì giây phút chờ đợi từ lâu nay đã đến. Tôi mừng rỡ chạy lại phía họ vì nghĩ rằng họ sẽ đón tiếp tôi vì tôi là người tị nạn Cộng Sản để tìm tự do. Nhưng hỡi ơi! Năm người lính Thái, với vẻ mặt hung dữ đã chiả súng vào tôi và ra lệnh cho tôi đứng yên để họ lục xét.
Có lẽ họ ngỡ tôi là dân Miên, muốn vượt biên giới để trốn qua Thái, nên họ ra lệnh cho tôi hãy trở về phiá biên giới Cambodia. Thất vọng qúa nên tôi rút giấy tờ tùy thân mà tôi vẫn giữ ở trong bóp ra để chứng minh thân thế của tôi là người Việt nam đi tị nạn Cộng Sản.
Cuối cùng, viên xếp của lính Thái lắc đầu và tiếp tục đuổi tôi về lại biên giới. Tôi đau đớn và bàng hoàng vì đã phải trải qua mười lăm ngày đường vất vả hiểm nguy, đã bỏ tất cả sự nghiệp, xa lìa cha mẹ anh em, hy sinh chính mạng sống mình để đi tìm tự do. Không ngờ khi đã đến bến bờ tự do, tôi lại bị bạc đãi và bị đuổi một cách nhục nhã. Nhưng nếu không trở về thì làm sao đây? Mà nếu liều vượt biên giới thì lính cũng sẽ bắn chết.
Thành ra, tôi buồn tủi, đau đớn, chua xót và ngậm ngùi mà phải trở lui, đi ngược về phía làng Para. Về lại chốn cũ trong mệt mỏi rã rời, tôi gặp lại ba người bạn đồng hành. May mắn là bọn lính Para không hề hay biết gì về cuộc đào thoát tới Thái của tôi. Nếu họ biết thì chết. Họ có thể hành quyết tôi ngay mà không suy nghĩ.
Thế rồi chúng tôi đành sống tiếp tục ở trại Non Samet cho đến hôm sau, vào ngày 4 tháng 5, 1980, thì một chiếc xe của hội HTTQT đến trại. Có một người Âu Châu đứng tuổi đến để lãnh dân tị nạn đến trại tị nạn.
Sau đó, chúng tôi được kêu lên phòng làm việc của viên Para chỉ huy để làm thủ tục giấy tờ, rời nơi đó mà đến trại tị nạn. Tại văn phòng của viên chỉ huy Para, tôi gặp một tốp người Việt Nam ở đó. Nhóm này gần mười người, gồm các gia đình khác nhau. Họ dường như vất vả và cực khổ hơn chúng tôi nhiều.
Chúng tôi là bốn thanh niên nên chỉ bị khám xét, lột lấy vàng bạc. Tuy tinh thần chúng tôi mệt mỏi, nhưng chúng tôi vẫn còn lành lặn. Nhóm người tị nạn Việt kia thì tội nghiệp hơn. Có ba người đàn ông trong nhóm thì một người da bị cháy nám, một ông già hơn thì không còn đi được nhưng chỉ lết mà thôi. Ba người phụ nữ trong nhóm thì da mặt đều cháy nám đen, vẻ mặt mệt mỏi và hằn đầy nét tủi nhục.
Theo lời những người đàn ông kể lại thì ba người phụ nữ này khi ở tiền đồn Para đã bị bọn lính Para làm nhục rất nhiều lần. Họ bị hãm hiếp tập thể và còn bị chúng hành hạ đớn đau. Tôi nghe mà chỉ biết đau đớn, ngậm ngùi và thương xót cho họ chứ còn biết làm gì hơn?
Trong đám người đến sau này, tôi thấy ông già bị liệt chân vì cuộc đi bộ triền miên, cứ ngồi tỉ tê khóc mãi. Tiếng khóc thổn thức làm cho người nghe phải cảm thương và xót xa cho thân phận ông. Khi hỏi ra thì mới rõ rằng ông ta đi với một con trai nhỏ và một con gái. Nhưng khi ông ta đến nơi thì chỉ còn hai cha con, còn con trai nhỏ của ông đã bị thất lạc, có thể đã bỏ xác trong rừng rồi.
Cạnh đó là một gia đình khác gồm người mẹ trên bốn mươi tuổi đi cùng ba con nhỏ. Bà L. này đến nơi thì gửi thư về Việt Nam cho chồng và hai con còn lại để họ đi sau. Vài tuần lễ sau, chỉ có hai con của bà được hội HTTQT đem vào trại ti nạn. Còn chồng bà L. thì biệt tin tức, chắc chắn ông ta đã bị giết chết hay bỏ xác trong rừng biên giới rồi. Thật đau khổ khi người cha thì mất tích, còn hai người con bơ vơ đến được trại tị nạn gặp lại mẹ.
Còn nhiều trường hợp như hoàn cảnh của anh L., anh đến bến bờ tự do cùng với đứa con ba tuổi. Còn vợ và đứa con một tuổi của anh đã bị lính Cộng Sản bắn chết ở Battambang, trên con đường vượt thoát.
Kết cuộc
Ngày 4 tháng 5, năm 1980, lúc 4:15 giờ chiều, sau mười lăm ngày dài cực khổ và hiểm nguy, chúng tôi đã được hội HTTQT đón và đưa về trại tị nạn NW 9. thoát nạn khỏi bàn tay của lính Para, một nhóm người chuyên sống bằng luật rừng xanh.
Sau khi ở trại NW 9, tôi được tới trại Pananikhom, rồi qua trại Bataan trước khi định cư ở Mỹ quốc.
Trần Chí Thành



No comments:

Post a Comment